1. GIỚI THIỆU
Trái với kiến thức ngày càng tốt hơn về sinh lý học của đau, tiến bộ của dược lý học và kỹ thuật điều trị đau, những thống nhất và chỉ dẫn từ các chuyên gia, sự kiểm soát không đầy đủ và đánh giá thiếu tôn trọng về đau thường xảy ra thay vì là ngoại lệ (1). Khoảng 30-40% bệnh nhân ung thư có đau từ khi xác định chẩn đoán. Trong giai đoạn tiến triển của bệnh, 75-90% bệnh nhân gặp đau, mặc dù dữ liệu từ các cơ quan y học chăm sóc đặc biệt trên toàn thế giới cho thấy 95% đau ung thư có thể được điều khiển hiệu quả (2). Trong 40-50% trường hợp, đau được xem là vừa nặng đến nặng, trong đó 70% trường hợp xảy ra dưới hình thức đau ung thư nociceptive trong đó các tế bào ung thư tiết ra endothelin, prostaglandin và yếu tố tử ngoại protein alpha (TNF), enzyme tiêu hóa protein và các hợp chất algogene khác. Việc nén và tổn thương dây thần kinh hoặc đau ung thư do xâm lấn dây thần kinh xương là nguyên nhân của đau ung thư thần kinh (3).
Thuốc giảm đau opioid nhẹ được dùng để điều trị đau vừa nặng và được sử dụng trong trường hợp thất bại của thuốc giảm đau không opioid hoặc nếu mức độ đau ban đầu đạt từ 4 đến 6 theo IAS, cùng một mình hoặc kết hợp với thuốc giảm đau không opioid, với hoặc không có thuốc giảm đau khác.
Tramadol là thuốc giảm đau opioid nhẹ với tác động lên hệ thống thần kinh trung ương, hoạt động như một chất xúc tác thuần túy phi chọn lọc của các receptor opioid µ, δ và κ với mối liên kết cao hơn với receptor µ. Bằng cách ức chế sự tái hấp thụ của norepinephrin và tăng cường việc giải phóng serotonin, tramadol đã được chứng minh là hữu ích trong việc giảm đau thần kinh. Nó được sử dụng trong điều trị đau mức vừa nặng và có thể làm giảm ho khan, trong khi ở một phạm vi liều lượng giảm đau rộng không ức chế hô hấp. Hiệu quả của nó tùy thuộc vào phương pháp sử dụng và chiếm từ 1/10 đến 1/6 hiệu quả của morfin (tiếng Anh: morphine) (4).
Có các bằng chứng để hỗ trợ tác động giảm đau trung tâm của paracetamol (5). Đến nay đã được chứng minh sự tham gia của paracetamol vào năm cơ chế giảm đau khác nhau: (a) Ức chế các iso enzyme cyclooxygenase (COX) trong hệ thống thần kinh trung ương mà không tương tác với các điểm gắn kết; (b) Kích hoạt chu kỳ thời gian bulbospinal của tế bào hồi giải; (c) Kích hoạt đường dẫn hoạt động của oxit nitric (NO); (d) Kích hoạt hoặc điều chỉnh các chu kỳ opioid tự nhiên, và (e) Tăng cường sự ổn định của hệ thống cannabinoid tự nhiên (5). Quá trình chuyển hóa của paracetamol tạo ra N-acetyl-p-benzoquinone imine (NAPQI), nếu không được khử độc, sẽ liên kết với các tế bào gan dẫn đến tổn thương tế bào. Liên kết này gây ngộ độc và suy yếu gan trong trường hợp quá liều paracetamol (6). Cũng đã được chứng minh sự liên kết giữa cao huyết áp và paracetamol (7, 8), có lẽ do lượng natri đáng kể mà mỗi viên paracetamol chứa.
Do đau kết hợp giữa đau nociceptive-thần kinh phổ biến, một thuốc giảm đau có thể không đủ hiệu quả để khắc phục tất cả các cơ chế gây đau. Kết hợp thuốc giảm đau có thể hiệu quả hơn vì chúng có thể cung cấp một phạm vi giảm đau rộng hơn, kích hoạt quá trình giảm đau và giảm các tác dụng phụ (9). Tác động của sự kết hợp thuốc giảm đau có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng với tổng thể tác động dự kiến. Hiệu ứng này có thể tính toán số học, dựa trên khái niệm “liều tương đương”, được xác định là liều lượng của mỗi loại thuốc góp phần vào tổng thể tác dụng khi mỗi loại được sử dụng riêng lẻ. Phân tích có thể so sánh hiệu ứng thực tế và hiệu ứng mong đợi của tổ hợp thuốc (10).
Việc kết hợp sử dụng tramadol và paracetamol trong một sản phẩm, dựa trên các tiêu chí dược động học và dược động lực học, có thể cải thiện tỷ lệ lợi ích: rủi ro, nâng cao hiệu quả bằng cách tác động theo cơ chế tương hỗ, cải thiện độ chịu đựng của thuốc (liều riêng lẻ thấp hơn) và tuân thủ của bệnh nhân (11).
Kết hợp tramadol và paracetamol đạt được một hiệu quả giảm đau tương hỗ thông qua ba cơ chế tác động khác nhau: Liên kết với các receptor opioid µ; Kích hoạt các đường dẫn kiểm soát đau đi xuống; Ức chế COX-3. Kết hợp này đảm bảo hiệu quả bắt đầu nhanh, hiệu quả kéo dài, hiệu quả tốt hơn từng thành phần riêng lẻ và một hồ sơ an toàn tốt. Nó có thể được sử dụng đơn độc hoặc có thể được thêm vào NSAIDs cho những bệnh nhân không đạt được giảm đau đủ.
Cần chú ý rằng tramadol có thể tăng nguy cơ co giật do giảm ngưỡng dung nạp co giật và gây hội chứng serotonin khi kết hợp với các chất ức chế tái hấp thụ serotonin chọn lọc khác (thuốc chống trầm cảm) (12). Paracetamol là thành phần thứ hai của tổ hợp cố định trong liều dùng điều trị chỉ có một số tác dụng phụ, trong khi liều tối đa được khuyến nghị cho người lớn (4 gam mỗi ngày) liên quan đến trường hợp suy giảm chức năng gan (13, 14).
Giai đoạn điều trị chăm sóc đặc biệt của bệnh sống còn liên quan đến việc ngừng điều trị ung thư được chỉ định cụ thể và tuổi thọ hạn chế của bệnh nhân với mục tiêu chính là cải thiện chất lượng cuộc sống, bất kể thời gian sống (15). Đau mức vừa nặng là triệu chứng chủ đạo ở bệnh nhân giai đoạn tiến triển của ung thư. Sự tiến triển của bệnh ở những bệnh nhân này đòi hỏi đánh giá tần suất triệu chứng đau và điều chỉnh liều thuốc giảm đau yếu hoặc chuyển sang thuốc giảm đau opioid mạnh.
FAQs
-
Câu hỏi: Khi nào nên sử dụng kết hợp tramadol và paracetamol?
Trả lời: Kết hợp sử dụng tramadol và paracetamol được khuyến nghị trong trường hợp đau vừa nặng hoặc không đạt được giảm đau đủ bằng thuốc giảm đau khác.
-
Câu hỏi: Có những tác dụng phụ nào do kết hợp tramadol và paracetamol?
Trả lời: Một số tác dụng phụ có thể gặp gỡ là tăng nguy cơ co giật và hội chứng serotonin. Tuy nhiên, trong liều dùng điều trị, tác dụng phụ này thường ít xảy ra.
Kết luận
Sự kết hợp giữa tramadol và paracetamol là một phương pháp điều trị đau hiệu quả trong y học chăm sóc đặc biệt. Kết hợp này kết hợp các cơ chế tác động khác nhau, đảm bảo hiệu quả và an toàn. Việc sử dụng kết hợp thuốc này có thể cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người mắc bệnh ung thư và gặp đau vừa nặng. Tuy nhiên, cần lưu ý các tác dụng phụ có thể xảy ra và tuân thủ các liều dùng đúng hướng dẫn của bác sĩ. Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập fim24h.